Tổng quan về âm nhạc thời Trung Cổ (1150 – 1400)


Âm nhạc thời Trung Cổ là âm nhạc được tạo ra và trình diễn trong thời Trung Cổ, âm nhạc cho nhà thờ Cơ đốc giáo (nhạc phụng vụ) và âm nhạc phi tín ngưỡng (phàm tục) được sáng tác cho mục đích tiêu khiển Ví dụ như thánh ca Gregorian được hát bởi những nhà sư, cũng như nhạc hợp xướng; âm nhạc chỉ được chơi bởi những nhạc cụ; và âm nhạc sở hữu thể được trình diễn bằng cả nhạc cụ và giọng nói. Những quá trình cận đại thường được coi là bắt đầu sau khi chấm dứt của đế chế La Mã gần cuối thế kỷ thứ năm và chuyển tiếp vào quá trình Phục hưng bắt đầu vào thế kỷ thứ XV sớm.

Đặc điểm của âm nhạc thời Cận đại

Nhạc cụ thời cận đại sở hữu thể được đặc biệt bởi “kết cấu” mỏng của nó  (hơi ít nhạc cụ trái ngược mang “kết cấu dày” của 1 dàn nhạc giao hưởng rất nhiều); nhân vật rất ăn nhịp; và chất lượng lặp lại, cũng như bởi âm thanh đặc biệt của những nhạc cụ của thời đại đó. 

Đặc điểm thời kỳ Trung cổ
Đặc điểm quá trình Cận đại

Nhạc cụ

Những nhạc cụ được sử dụng để trình diễn âm nhạc thời cận đại vẫn còn đó, nhưng ở những hình thức khác nhau. Sáo đã từng được làm bằng gỗ chứ chẳng phải bằng bạc hoặc kim loại khác, và sở hữu thể được làm như 1 nhạc cụ thổi bên hoặc thổi cuối. Máy ghi ít phổ biến vẫn giữ nguyên hình trạng trước đây. Gemshorn như vậy như máy thu âm ở chỗ sở hữu lỗ ngón tay ở mặt trước, dù rằng nó đích thực là 1 thành viên của họ ocarina. 1 trong các tiền thân của sáo, sáo chảo, rất phổ thông trong thời cận đại, và sở hữu thể sở hữu nguồn cội từ Hy Lạp. Những ống của nhạc cụ này được làm bằng gỗ, và được chia độ dài để đáp ứng những cao độ khác nhau.

Âm nhạc thời cận đại sử dụng phổ biến nhạc cụ dây gảy như đàn nguyệt, đàn mandore, gittern và psaltery. Những loại độc huyền, sở hữu cấu trúc như vậy như đàn thánh ca và đàn tranh, từ đầu được dùng để gảy, nhưng đã phát triển thành nức tiếng vào thế kỷ XIV sau khi kỹ thuật mới tạo ra dây kim loại sở hữu thể sử dụng được.

Nhạc cụ thời kỳ Trung Cổ
Nhạc cụ quá trình Trung Cổ

Lyra của Đế chế Byzantine là nhạc cụ dây cung trước nhất được ghi chép ở châu Âu. Nhà địa lý người Ba Tư Ibn Khurradadhbih ở thế kỷ thứ chín (mất năm 911) đã trích dẫn lyra Byzantine, trong cuộc đàm luận từ điển của ông về những nhạc cụ như 1 nhạc cụ cúi đầu tương đương mang những rabāb Ả Rập và nhạc cụ tiêu biểu của người Byzantine cùng mang đàn urghun (đàn organ), shilyani ( có nhẽ là 1 loại đàn hạc hoặc đàn lia) và salandj (sở hữu thể là 1 loại kèn túi). Cây vĩ cầm đã (và vẫn là) 1 cây đàn vi-ô-lông cơ học sử dụng 1 bánh xe bằng gỗ màu hồng gắn vào 1 tay quay để “cung” dây của nó. Những nhạc cụ không sở hữu hộp âm thanh như đàn hạc hàm cũng rất phổ thông vào thời đó. Những version từ đầu của organ, fiddle (hoặc vielle), và trombone (được gọi là sackbut) đã còn đó.

Loại thể

Âm nhạc thời cận đại vừa linh nghiệm vừa phàm tục. Trong quá trình cận đại trước đó, loại thể phụng vụ, cốt yếu là thánh ca Gregorian, là đơn âm. Những loại thể đa âm bắt đầu lớn mạnh trong quá trình cận đại cao, phát triển thành thịnh hành vào cuối thế kỷ 13 và đầu thế kỷ 14. Sự lớn mạnh của những hình thức tương tự thường gắn liền mang Ars nova.

Các phát kiến ​​sớm nhất đối mang đơn âm đơn âm là dị âm. chẳng hạn, organum được mở mang theo nhạc điệu dễ hiểu bằng cách sử dụng 1 dòng đi kèm, được hát ở 1 khoảng thời kì cố định, mang kết quả là sự xen kẽ giữa đa âm và đơn âm. Những nguyên tắc của organum sở hữu từ thế kỷ thứ chín vô danh, Musica enchiriadis, đã cài đặt truyền thống sao chép 1 bản nhạc thuần túy đã sở hữu từ trước trong di chuyển đồng thời ở khoảng 1 quãng tám, 1 phần năm hoặc 1 phần tư.

Thể loại nhạc thời kỳ Trung cổ
Loại thể nhạc quá trình Cận đại

Tinh tế hơn cả là motet, được lớn mạnh từ loại thể clausula của đồng bằng thời cận đại và sẽ phát triển thành hình thức phổ thông nhất của đa âm thời Cận đại. Khi mà motet từ đầu là phụng vụ hoặc linh nghiệm, vào cuối thế kỷ thứ mười ba, loại thể này đã mở mang để bao gồm những chủ đề phàm tục, Ví dụ như tình ái cung đình.

Trong suốt quá trình Phục hưng, loại thể phàm tục của Ý về madrigal cũng phát triển thành phổ thông. Như vậy như đặc tính đa âm của motet, madrigals sở hữu tính lưu động và di chuyển cao hơn ở dòng đầu. Hình thức madrigal cũng làm nảy sinh những luật lệ, đặc trưng là ở Ý, nơi chúng được sáng tác mang tiêu đề Caccia. Đây là các bản nhạc phàm tục gồm ba phần, trong đó sở hữu hai giọng cao hơn trong canon, mang phần đệm nốt dài của nhạc cụ bên dưới.

Chung cuộc, nhạc cụ thuần túy cũng lớn mạnh trong quá trình này, cả trong bối cảnh truyền thống sàn diễn ngày một lớn mạnh và chuyên dụng cho nhu cầu cung đình. Nhạc dance, thường được ngẫu hứng xoay quanh quéo các điệu tropes thân thuộc, là loại thể nhạc cụ thuần túy lớn nhất. Ballata phàm tục, đã phát triển thành rất phổ thông ở Trecento Ý, sở hữu nguồn cội, Ví dụ như trong nhạc nhảy nhạc cụ thời Cận đại.

Vừa rồi là 1 số lý thuyết căn bản về âm nhạc thời cận đại, nếu như bạn thấy bài viết bổ ích đừng quên san sẻ và nhấn nút like. Với bất kỳ nghi vấn nào hay đơn thuần chỉ muốn góp ý thêm về những tri thức thanh nhạc thì hãy để lại bình luận bên dưới nhé. Rất mong nhận được phản hồi từ bạn!

Những bạn sở hữu thể tham khảo khóa học thanh nhạc và đăng ký học hàng chùa tại đây: 21 ngày luyện hát cùng Mỹ Linh

Leave a Reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Previous post Lịch sử của âm nhạc cổ điển qua 6 giai đoạn (phần 2)
Next post Tri thức nhạc lý căn bản cho người mới bắt đầu